6©

  

Đ

ến Trung Tâm Giới Trẻ Việt Nam vào ngày thứ bảy cuối tuần, Tâm có thói quen dùng bàn giấy của ḿnh để dọn bài chia sẻ cho chương tŕnh phát thanh “Phúc Aâm Sự Sống” do chàng phụ trách vào mỗi ngày Chúa Nhật. Tuy nhiên, hôm nay là ngày 25 tháng 7 năm 1998, ngày kỷ niệm đúng 30 năm trước (1968) Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành Thông Điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae), một sứ điệp làm choáng váng chủ thuyết duy nhân, làm bàng hoàng các đầu óc Kitô hữu cấp tiến, nên bức Thông Điệp lịch sử này cũng là một văn kiện bị chống đối nhất trong các văn kiện của Ṭa Thánh Công Giáo Rôma từ trước cho đến nay, cả từ bên ngoài lẫn bên trong. Đó là đề tài Tâm đang suy nghĩ để chia sẻ vào ngày mai.

 

Mở cửa bước vào bàn giấy, Tâm cúi xuống nhặt tờ báo nằm ngay trên sàn, bên trong khe cửa để bỏ thư từ hay đồ vật khi văn pḥng hết giờ làm việc. Tâm vốn không có thói quen coi các loại báo chí rải rắc như vậy. Thế nhưng, từ ngày trực tiếp phục vụ cộng đồng thiểu số của ḿnh, cũng là thời gian chàng bắt đầu đụng chạm đến một số đồng hương hải ngoại của ḿnh, Tâm đành phải theo dơi các phản ứng tiêu cực chống đối nhau thường xuất hiện trên các mặt báo, nhất là trên tờ Điểm Mặt. Đúng thế, chưa cần lật mặt  chính của tờ báo úp mặt xuống sàn vừa được nhặt lên cầm trên tay, Tâm đă biết ngay đó là tờ Điểm Mặt, và tự nhiên Tâm linh cảm thấy thế nào cũng có ḿnh trong đó, qua việc tờ báo được lén vứt vào văn pḥng chàng như vậy.

 

Đây là lần thứ năm chàng nhận được báo kiểu này. Chàng chưa hề lên tiếng chung riêng để biện hộ hay thanh minh cho những ǵ họ phê b́nh, chỉ trích, bôi nhọ tên tuổi chàng. Đối với Tâm, việc chàng mở Trung Tâm Giới Trẻ Việt Nam là hoàn toàn có ư để phục vụ riêng giới trẻ và chung khối cộng đồng Người Việt hải ngoại, một việc xuất phát từ ḷng bác ái Kitô giáo của Tâm hơn là nhằm mục đích sinh nhai hay lợi dụng để mưu cầu thế giá và tranh giành quyền lợi thế gian.

 

Những điểm chính yếu báo chí thường nhắm đến như mục tiêu tấn công chàng là ba việc sau đây. Việc thứ nhất là việc Mai Linh đứng tên làm chủ tịch của Trung Tâm do chàng lập, mà chàng là chồng nàng lại đứng làm giám đốc điều hành để hưởng ngân qũi của tiểu bang. Việc thứ hai là việc Trung Tâm đă nhận ngân qũi của chính quyền tiểu bang mà giới trẻ vẫn phải đóng góp vào các chi phí sinh hoạt của Trung Tâm, dù với danh nghĩa đóng góp cho Qũi Lá Lành Đùm Lá Rách. Việc thứ ba là việc vị giám đốc của Trung Tâm là chàng có một đường lối hướng dẫn ngược lại với ư hướng của các cơ quan công quyền gửi giới trẻ đến Trung Tâm, như việc hướng dẫn chống lại chiều hướng safe sex hiện được giảng dạy trong các học đường v.v.

 

Về mục tiêu tấn công thứ nhất: vợ đứng tên để chồng hưởng lộc. Theo lư, chàng vẫn không làm ǵ sai trái cả. Mai Linh thực ra không phải là vợ chính thức của chàng, ngoài việc đứng tên chung với chàng để làm foster parents trong việc nuôi dưỡng đứa trẻ đáng thương của một người mẹ tội nghiệp mà thôi. Tuy nhiên, vai tṛ giám đốc điều hành chàng hiện đảm trách đây, theo ư định của Tâm, Tâm sẽ trao lại cho một người trong đám trẻ thân cận cộng tác với chàng hiện nay, một người có tinh thần đạo hạnh, yêu thương và phục vụ, kèm theo khả năng lănh đạo có thể điều hành Trung Tâm theo đúng đường hướng do chàng chủ trương. Đó là lư do chàng hết sức nỗ lực để đào luyện chẳng những một người mà cả một nhóm, như nhóm 3 anh em Minh Kha, Giang Phong và Thiên Sa đă trung thành hợp tác với chàng từ đầu đến nay.

 

Về mục tiêu tấn công thứ hai: giới trẻ phải đóng góp cho Trung Tâm. Tâm chẳng những không phải là người gợi lên ư lập Qũi Lá Lành Đùm Lá Rách của nhóm Ái Hữu Trung Tâm Giới Trẻ Việt Nam, chàng lại càng không hề đụng đến vấn đề tiền bạc hay sổ sách của qũi này. Những vấn đề tiêu pha của qũi là để hỗ trợ cho những ǵ, cả về sinh hoạt lẫn nhu cầu, mà ngân qũi chính phủ không bao gồm. Vả lại, những nhu cầu và sinh hoạt cần chi tiêu ngoại lệ đụng đến qũi riêng này hoàn toàn do giới trẻ đồng ư chi dùng và cho giới trẻ của họ hưởng dùng, không hề mang lại bổng lộc riêng tư nào cho cá nhân hoặc gia đ́nh chàng, ngoài chút quà đầu xuân hằng năm theo tinh thần báo đáp Việt tộc. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, chính chàng c̣n móc túi ra đóng góp tài chính với giới trẻ để giải quyết tốt đẹp cho họ trong những trường hợp lưỡng lự không biết có nên thực hiện hay chăng?

 

Về mục tiêu tấn công thứ ba: việc hướng dẫn giới trẻ ngược chiều giáo dục hiện đại. Điều này Tâm hoàn toàn công nhận là đúng. Bởi v́, mục đích chính yếu Tâm thành lập Trung Tâm Giới Trẻ Việt Nam này không phải chỉ để mua vui cho giới trẻ, hay để làm trại cải huấn giới trẻ thay cho chính phủ, nên cần phải theo đường lối chính phủ đề ra. Tâm thà để cho Trung Tâm của chàng bị đóng cửa c̣n hơn mở ra để dạy giới trẻ làm hại thêm cho xă hội. Tâm không thể chạy theo chiều hướng chung hiện nay tại xă hội quá thiên về kỹ thuật tiện nghi hơn luân thường đạo lư chàng đang sống, ở chỗ, họ chủ trương  chặt đuôi chứ không muốn nhổ tận rễ, như thà mở thêm nhà tù hơn là nhất định bỏ luật dùng súng, chủ trương tài trợ giới trẻ vị thành niên mang bầu hơn là muốn băi việc giáo dục safe sex, tức thay việc dạy làm t́nh an toàn cho khỏi bị hội chứng Aids liệt kháng, bằng việc dạy giới trẻ giữ ḿnh trong sạch cho tới khi lập gia đ́nh, một nhân đức xứng với nhân phẩm con người, tăng cao giá trị làm người và là phương pháp ngừa Aids hiệu nghiệm nhất.

 

Về việc làm, Tâm chẳng những không sai trái điều ǵ, lại c̣n bất chấp tư lợi để sống cho giới trẻ như thế, đủ chứng tỏ chàng không có mưu đồ ǵ hay lợi dụng ǵ ở Trung Tâm Giới Trẻ Việt Nam cả. Trái lại, nếu chàng là một cây xấu th́ không thể nào trái tốt lại có thể trổ sinh nơi ḷng qúi mến của đủ mọi thành phần giới trẻ đặc biệt dành cho chàng từ trước đến nay. Do đó, theo tinh thần sống đạo cố hữu, Tâm vẫn âm thầm vui chịu mọi bất lợi xẩy đến cho ḿnh. Tâm coi chúng như dấu ấn Thánh Giá Thiên Chúa muốn đóng trên việc phục vụ hoàn toàn vô vị lợi của chàng, một dấu chứng tỏ việc chàng làm là việc rất đẹp ḷng Chúa, một việc bởi Chúa mà ra và là việc của Chúa, và một khi đă là việc của Chúa th́ không bàn tay trần gian nào có thể phá được.

 

Làm việc trần gian với ḷng tin tưởng siêu nhiên như thế, chàng không hề muốn điểm mặt xem ai là người phá chàng, cũng không hề oán hận hay thù ghét bàn tay nào đó ném đá chàng trên báo chí, trái lại, chàng c̣n thương họ hơn ai hết, v́ họ lầm lẫn hay bị xúi bẩy. Qua bốn bài báo trước đây,  chàng có thể biết được tác giả của chúng là ai, bởi giọng văn, cách diễn tả và nội dung mà chỉ  người trong nội bộ mới có thể hiểu nhau và biết được thấu đáo như thế. Đó là lư do trong buổi họp đầu tuần vừa rồi của chàng với thành phần giới trẻ ưu tú chàng đă trấn an họ sau vấn đề được Giang Phong nêu lên.

 

Thế nên, việc chàng im hơi lặng tiếng không hề phản ứng ǵ không phải là chàng nhát gan sợ đụng chạm hay sợ bị đ̣i nợ máu như những vụ thanh toán nhau mới đây, càng không phải là chàng tỏ ra thái độ quân tử không thèm chấp bọn tiểu nhân tầm thường.

 

Chính đời sống nội tâm tràn đầy tin yêu ấy đă làm Tâm luôn an b́nh, một thứ b́nh an không một ai trên trần gian này có thể ban tặng cho chàng. Thế là Tâm để tờ Điểm Mặt sang một bên, bắt đầu chuyên chú dọn bài chia sẻ ngày mai. Trong đám thư lấy từ hộp thư của Trung Tâm về văn pḥng, chàng thấy có tờ Thông Reo của một hội ái hữu sống ở Đà Lạt trước kia mà chàng đôi khi cũng đến sinh hoạt, cùng với tờ Song Nguyền (tháng bảy) của Chương Tŕnh Thăng Tiến Hôn Nhân. Hai tờ này cùng có bài của Cao Tấn Tĩnh, tác giả chàng mộ mến, hai bài mang một nội dung, chỉ khác nhau tựa đề: “Vợ Theo Chồng hay Chồng Theo Vợ?” ở tờ Song Nguyền, và “Ơn Gọi của Adong là Evà” ở tờ Thông Reo. Bài viết lưỡng đề này thật sự đă gợi hứng để chàng có thể chia sẻ ngày mai với thính giả của chương tŕnh phát thanh “Phúc Aâm Sự Sống” do chàng phụ trách. Bài viết có nội dung như sau.

 

 

T

hân phận của một người con gái lớn lấy chồng, theo Khổng Giáo, là “xuất giá ṭng phu”, tức là, theo ngôn ngữ b́nh dân Việt Nam, “lấy chồng th́ phải theo chồng”. Văn hóa này dường như cũng là văn hóa chung, là đường lối chung của nhân loại, chỉ trừ ở một vài nơi c̣n theo chế độ mẫu hệ, như nhóm người Thượng ở Di Linh Việt Nam chẳng hạn, c̣n “đi bắt chồng” và chồng phải về ở với vợ. Tục lệ Do Thái cũng chủ trương “lấy chồng th́ phải theo chồng” như văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn trường hợp của Tôbia con đi lấy vợ và dẫn vợ về với ḿnh (xem Tobia 9:7-14), hay trường hợp của Thánh Giuse và Mẹ Maria, như Phúc Aâm thánh Luca thuật lại, sau khi Thánh Giuse được thiên thần cho biết việc Mẹ Maria thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, th́ “ngài đă làm như thiên thần Chúa chỉ dẫn và lănh nhận Mẹ về nhà làm bạn ḿnh” (1:24).

            Thế mà, theo Sách Khởi Nguyên, ngay từ ban đầu, sau khi con người được dựng nên có nam có nữ, và sau khi con người nhận ra xương thịt của ḿnh nơi đồng bạn xứng hợp với ḿnh, th́ Thánh Kinh mạc khải cho biết: “Đó là lư do tại sao người nam ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh” (Gn.2:24). Nếu “người nam ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh” như thế th́ ở đây chồng theo vợ chứ đâu có phải là vợ theo chồng! Vậy th́ văn hóa hôn nhân của chung con người từ trước đến nay đă đi ngược lại với ư định của Thiên Chúa rồi sao? Những bàn giải sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.

            Trước hết, cũng theo Sách Khởi Nguyên, đoạn 2, nếu Thiên Chúa dựng nên người nữ từ con người đầu tiên tự bẩm sinh mang nam tính là Adong, và mục đích Thiên Chúa dựng nên người nữ cho con người mang nam tính là để người nữ trở thành một đồng bạn xứng hợp với con người tự bẩm sinh mang nam tính sống một ḿnh không tốt, th́ với tư cách làm vợ của ḿnh, tức làm đồng bạn xứng hợp của người nam, người nữ thuộc về người nam và phải theo người nam là chồng của ḿnh.

            Sau nữa, Sách Khởi Nguyên nói về việc con người nam nhân làm chồng đây “ĺa bỏ cha mẹ”, trong khi Adong không hề được sinh ra bởi một cha mẹ nào, mà là được chính Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất và bằng hơi thở thần linh của Ngài. Bởi vậy, việc con người nam nhân làm chồng “ĺa bỏ cha mẹ” đây không có nghĩa đen là theo vợ, về ở với vợ, như trường hợp vợ theo chồng và về ở với chồng vẫn thấy nơi trường hợp của người nữ làm vợ từ trước đến nay. Đúng hơn, việc con người nam nhân làm chồng “ĺa bỏ cha mẹ” đây là việc họ theo ơn gọi làm chồng của ḿnh, như nam nữ theo ơn Chúa gọi th́ bỏ nhà đi tu, hay như trường hợp Abram theo ơn Chúa gọi th́ rời bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa chỉ cho (xem Gn.12:1). Vậy ơn gọi làm chồng của con người nam nhân đây là ǵ, nếu không phải là, như Sách Khởi Nguyên, ngay sau khi nói về việc Adong “ĺa bỏ cha mẹ”, liền nói “gắn bó với vợ ḿnh”.

            Phải, ơn gọi của người làm chồng đó là “gắn bó với vợ ḿnh”. Không phải hay sao, ơn gọi làm chồng này, theo tự nhiên, đă gắn liền với con người mang nam tính? Ở chỗ, khi c̣n “ở một ḿnh không tốt”, tức là khi tới tuổi dậy th́ mà c̣n độc thân, nam nhân tự nhiên như luôn luôn bị thúc đẩy, hay nói cách khác, vốn có khuynh hướng t́m kiếm “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Việc nam nhân t́m kiếm nữ giới, qua việc đi “cua”, “tán”, “theo” phái đẹp đây không phải là dấu hiệu chứng tỏ ơn gọi “gắn bó với vợ ḿnh” khi lập gia đ́nh hay sao?

 

T

hế nhưng, người chồng phải thực hiện ơn gọi “gắn bó với vợ ḿnh” bằng cách nào và như thế nào mới đúng như ư Đấng đă xe duyên kết nghĩa cho ḿnh, như chính Ngài đă dựng nên Evà và c̣n đích thân mang Evà đến cho Adong, để chính thức kết duyên cho đôi uyên ương nguyên tổ trong vườn địa đàng, lúc mà cả hai đang ngây ngất hồn nhiên với bộ áo cưới “trần truồng không biết xấu hổ”. Cũng ngay trong cùng một đoạn và câu của Sách Khởi Nguyên trên đây, sau khi nói đến chuyện con người nam tính “ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh”, Mạc Khải Thánh Kinh liền tiết lộ bản chất làm nên hôn nhân nói chung và ư nghĩa sâu xa của ơn gọi làm chồng nói riêng, qua câu: “và trở nên một thân thể với vợ”.

            Đúng vậy, để thể hiện ơn gọi làm chồng là “gắn bó với vợ ḿnh”, con người nam tính phải “trở nên một thân thể với vợ”. Hay nói cách khác, “trở nên một thân thể với vợ” là người chồng hoàn thành ơn gọi làm chồng của ḿnh. Thế nhưng, thực tế cho thấy, về sinh lư hay thể lư, người chồng không thể nào “trở nên một thân thể với vợ” được. Do đó, chữ “thân thể” đây phải hiểu là bản thân ḿnh, bản thân người chồng, tức là người vợ của người chồng, đúng như văn hóa Việt Nam vẫn cho phép người chồng gọi vợ là “ḿnh”, và đúng như lời Thánh Phaolô khuyên người làm chồng là “phải yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh. Ai yêu vợ ḿnh là yêu chính bản thân ḿnh” (Eph.5:28). Như thế, để “trở nên một thân thể với vợ” hầu có thể thực hiện trọn vẹn và hoàn hảo ơn gọi làm chồng của ḿnh, người chồng “phải yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh”.

            Nói tóm lại yêu thương vợ ḿnh là ơn gọi của người làm chồng, hay nói ngược lại, ơn gọi của người làm chồng là yêu thương vợ ḿnh. Người chồng nào cảm thấy cuộc sống hôn nhân với vợ ḿnh không c̣n hay không có hạnh phúc th́ trước hết hăy xét lại xem ḿnh đă chu toàn hay đă hết sức thực hiện ơn gọi “yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh” chưa? Nếu rồi th́ họ có khổ cũng đừng lo, tới thời điểm Chúa định, Ngài sẽ giải quyết mọi sự tốt đẹp cho họ, như Ngài đă thực hiện trong trường hợp của Thánh Giuse (xem Mt.1:18-25).

            Tuy nhiên, cả Thánh Kinh lẫn thực tế cho thấy, cũng không thiếu những trường hợp người chồng “yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh” mà vẫn không hoàn trọn ơn gọi làm chồng của ḿnh, trái lại, c̣n tác hại đến chính bản chất hôn nhân là “trở nên một thân thể với vợ” nữa. Điển h́nh nhất là trường hợp của đôi uyên ương nguyên tổ trong vườn địa đàng. Adong đă chẳng yêu thương vợ ḿnh hay sao, đến nỗi, như chính Thiên Chúa cũng nhận thấy là “ngươi đă nghe vợ mà ăn cây Ta cấm ngươi ăn” (Gn.3:17). Ở đây, tuy Adong không ghét vợ hay không c̣n hợp với vợ ḿnh đă tự ḿnh “chọn” chứ không ai ép, để có thể đi đến chỗ ly dị vợ ḿnh như ngày nay, nhưng t́nh của Adong yêu Evà cũng đă làm cho hai người, thay v́ “trở nên một thân thể”, lại gặp phải t́nh trạng ly thân đáng thương.

            Đúng thế, sau khi yêu thương nhau cách hồn nhiên nhưng ngang trái với ư muốn của Thiên Chúa, đôi uyên ương nguyên tổ đă không ly thân nhau là ǵ, khi hai người, về thể lư, tuy là vợ chồng với nhau, mỗi người cũng phải t́m cách che giấu đi “cái” phái tính đặc thù (private part) của ḿnh, chứ không c̣n là một thân thể khi “cả hai trần truồng mà không biết xấu hổ” (Gn.2:25) nữa. Về tâm lư, đôi uyên ương nguyên tổ cũng không ly thân nhau là ǵ, khi Adong bị Chúa hạch hỏi “ai đă bảo cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng?” (Gn.3:11) liền đổ lỗi cho Evà: “Người nữ mà Chúa cho ở với tôi đă đưa cho tôi trái cây đó nên tôi đă ăn” (Gn.3:12).

 

T

hành ngữ “người nữ mà Chúa cho ở với tôi”, được thốt ra từ cửa miệng Adong đây, chẳng những nói lên việc vợ theo chồng hơn là chồng theo vợ, mà c̣n nói lên việc Adong ư thức được hôn nhân là một ơn gọi chứ không phải là chỉ việc t́m kiếm để đáp ứng cho thỏa măn nhu cầu tâm sinh lư tự nhiên tới thời của nó nơi con người phái tính của ḿnh. Chính v́ ngày nay người ta theo văn hóa hôn nhân “pro choice”, tức chủ trương tôi có quyền chọn ư trung nhân th́ tôi cũng có quyền bỏ, có quyền chọn lại, mới xẩy ra t́nh trạng ly dị và phá sản hôn nhân như ngày nay, và từ đó lây sang t́nh trạng phá thai khủng khiếp như bây giờ. Hiện tượng ly dị được pháp lư hóa cho thấy hết sức rơ ràng là con người cực kỳ văn minh ngày nay qúa ấu trĩ, không biết chọn lựa ǵ cả, chọn ǵ cũng không xong, không được như ư, thay đổi, chóng chán, như trẻ con!

            Thế nên, tới khi nào con người ư thức được hôn nhân là một ơn gọi, ở chỗ, người bạn đời của ḿnh là do Thiên Chúa chọn cho ḿnh, ḿnh chỉ là người chấp nhận nhau từ Ngài, như Adong đă chấp nhận Evà từ tay Thiên Chúa trong vườn địa đàng như “người nữ Chúa cho ở với tôi”, hôn nhân của con người mới thực sự có ư nghĩa, bền bỉ và hạnh phúc. Bởi v́, một khi ư thức được người bạn đời của ḿnh là “người Chúa cho ở với” ḿnh th́ vợ chồng mới kính trọng nhau như là người của Chúa, chứ không phải chỉ yêu thích nhau như là người của ḿnh, cho đến khi không thích nữa th́ bỏ, th́ t́m người khác. v́ vợ chồng là “người Chúa cho ở với” ḿnh như thế, nên phản bội nhau là phản bội Chúa trước hết, là “phân rẽ những ǵ Thiên Chúa đă kết hợp” (Mt.18:6).

            Nếu Adong ư thức được hôn nhân là một ơn gọi và đă yêu thương “gắn bó với vợ ḿnh” là “người Chúa cho ở với” ông, mà c̣n chưa hoàn tất được ơn gọi làm chồng của ḿnh, và nếu Thánh Giuse là “một con người công chính” (Mt.1:19) c̣n gặp bị thử thách trong đời sống hôn nhân đến gần như làm cho hôn nhân bất thành, th́ vợ chồng nói chung và người làm chồng nói riêng ngày nay, không nhiều th́ ít, không nặng th́ nhẹ, làm sao có thể hoàn toàn tránh được những cơn El Nĩno tàn phá hay dập vùi hạnh phúc hôn nhân, chứ chưa nói đến việc “Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội thế nào, các người chồng cũng phải yêu thương vợ ḿnh như vậy” (Eph.5:25).

            Phải, chỉ có t́nh yêu Chúa Kitô đối với Giáo Hội nơi thành phần làm chồng mới có thể giải nguy cho t́nh trạng hôn nhân đang phá sản khủng khiếp ngày nay. Nếu Adong, khi c̣n trong t́nh trạng công chính nguyên thủy chưa biết đến tội lỗi là ǵ, mà thấy được gương của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để mà noi theo, th́ chưa chắc Adong đă yêu thương Evà vợ ḿnh ngang trái và tai hại như thế. Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội. Adong cũng yêu thương Evà. Tuy nhiên, t́nh yêu của Chúa Kitô đă thánh hóa Giáo Hội (xem Eph.5:27), trong khi t́nh yêu của Adong lại làm cho Evà phải mang nặng đẻ đau (xem Gn.3:16).

            Vậy, nếu ơn gọi của người làm chồng là “gắn bó với vợ ḿnh”, bằng việc “trở nên một thân thể với vợ”, được thể hiện nơi mối t́nh “yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh”, không phải như kiểu cách của ḿnh mà là “như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội và đă hiến ḿnh cho Giáo Hội”, th́ xin thánh Giuse, vị phu quân công chính đă hết ḿnh yêu thương Mẹ Maria là người Chúa cho ở với ngài, khi ngài vui nhận Mẹ về nhà làm bạn, để phục vụ Mẹ và Chúa Giêsu như một người “làm đầu là làm tôi tớ” (Mt.20:27), cầu xin cho mỗi một người làm chồng và làm gia trưởng trong gia đ́nh, được tràn đầy Chúa Thánh Thần là T́nh Yêu ban Sự Sống. Amen.

 

Đọc xong bài “Ơn Gọi của Adong là Evà”, Tâm liền nẩy ra ư tưởng sẽ chọn đề tài chia sẻ cho buổi phát thanh ngày mai của chàng với thính giả là “Ơn Gọi của Evà là Làm Mẹ Sinh Linh”.

 

            - Xin chào toàn thể qúi thính giả của Chương Tŕnh Phát Thanh Công Giáo “Rạng Ngời Chân Lư”. Hôm nay, nhân dịp kỷ niệm 30 năm Thông Điệp Sự Sống Con Người của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, chúng ta cùng nhau ôn lại nội dung và tác hiệu của bức Thông Điệp lịch sử thời danh ấy. Thiết tưởng người có thể giúp chúng ta trong vấn đề này không ai hơn vị phụ trách mục “Phúc Aâm Sự Sống” của chương tŕnh truyền thanh hằng tuần của chúng tôi cũng là người vốn được qúi vị mến mộ. Chúng tôi xin trân trọng nhường trọn buổi phát thanh hôm nay cho ông Bá Thiện Tâm.

 

            - Xin hết ḷng cám ơn qúi vị phụ trách Chương Tŕnh Phát Thanh Công Giáo “Rạng Ngời Chân Lư” đă long trọng giới thiệu tôi và nhường hẳn buổi truyền thanh hôm nay cho tôi. Xin kính chào toàn thể qúi thính giả rất thân mến của chung chương tŕnh phát thanh “Rạng Ngời Chân Lư” và của riêng mục “Phúc Aâm Sự Sống” của tôi.

            Kính thưa qúi vị, hôm qua là ngày 25 tháng  7 năm 1998, ngày mà đúng 30 năm trước đây, Đức Phaolô VI đă ban hành bức Thông Điệp Humanae Vitae về Sự Sống Con Người. Ngoài ra, cùng với việc kỷ niệm bức thông điệp thời danh này, năm nay chúng ta c̣n nhớ đến hai biến cố sau đây: biến cố thứ nhất là bản Hiến Chương Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc công bố ngày 10-12-1948, tức đúng 50 năm về trước, và biến cố thứ hai là luật cho phép phá thai tại Hoa Kỳ năm 1973, tức 25 năm trước đây. Chính v́ để kỷ niệm những biến cố hầu như liên quan đặc biệt đến thân phận và vai tṛ của người phụ nữ mà hôm nay, thưa qúi vị, tôi xin chia sẻ với qúi vị về đề tài “Ơn Gọi của Evà là Làm Mẹ Sinh Linh”.

            Nói đến Evà, qúi thính giả Kitô hữu nói riêng và hầu như qúi vị thính giả nói chung đều biết đó là vị nữ nguyên tổ của loài người. Đúng thế, theo Thánh Kinh Do Thái Giáo cũng như Kitô Giáo, sau khi hai nguyên tổ loài người là Adong và Evà sa ngă phạm tội mất ḷng Thiên Chúa là Đấng đă tạo dựng nên các vị và cho các vị sống trong vườn địa đường, qua việc các vị ăn trái cây biết lành biết dữ ở giữa vườn là cây bị Ngài cấm, và sau khi các vị cùng với con rắn qủi cám dỗ nữ nguyên tổ lănh bản án Thiên Chúa tuyên phạt, th́ Sách Khởi Nguyên ở đoạn 3 câu 20 ghi lại rằng: “Con người gọi vợ ḿnh bằng tên Evà, v́ nàng đă là mẹ của tất cả các sinh vật”.

            Thật vậy, nếu ơn gọi của Adong là Evà, ở chỗ, cũng theo bộ Thánh Kinh này, trong đoạn 2 câu 24 của cùng Sách Khởi Nguyên: “Con người lià bỏ cha mẹ ḿnh mà gắn bó với vợ ḿnh”, th́ quả thật “Ơn Gọi của Evà là Làm Mẹ Sinh Linh”, hơn là hiến thân cho chồng ḿnh để “cả hai trở nên một xương thịt” (Gn.2:24). Bởi v́, nước không bao giờ chảy ngược thế nào, t́nh yêu con người cũng phải xuôi chiều như vậy, tức là theo tiến tŕnh tự nhiên phát xuất từ Adong yêu thương gắn bó với Evà để rồi, nhờ được Adong yêu thương, Evà có thể làm mẹ. Thế nên, bao giờ con người được dựng nên “có nam có nữ” (Gn.1:27) đi ngược chiều hay đi sai lệch với tiến tŕnh ơn gọi hôn nhân do Thiên Chúa Tối Cao vô cùng khôn ngoan xếp định này, họ khó ḷng có thể tránh được tai nạn xẩy đến cho ḿnh, như cơn khủng hoảng xă hội bắt nguồn từ hôn nhân và gia đ́nh hiện nay chứng thực. Về vấn đề này, Tác giả Cao Tấn Tĩnh, trong bài “Ơn Gọi của Adong là Evà” viết cho tờ Thông Reo tháng 7/1998 này, đă nhận định rất xác đáng như sau:

 

Chính v́ ngày nay người ta theo văn hóa hôn nhân “pro choice”, tức chủ trương tôi có quyền chọn ư trung nhân th́ tôi cũng có quyền bỏ, có quyền chọn lại, mới xẩy ra t́nh trạng ly dị và phá sản hôn nhân như ngày nay, và từ đó lây sang t́nh trạng phá thai khủng khiếp như bây giờ. Hiện tượng ly dị được pháp lư hóa cho thấy hết sức rơ ràng là con người cực kỳ văn minh ngày nay qúa ấu trĩ, không biết chọn lựa ǵ cả, chọn ǵ cũng không xong, không được như ư, thay đổi, chóng chán, như trẻ con! Thế nên, tới khi nào con người ư thức được hôn nhân là một ơn gọi, ở chỗ, người bạn đời của ḿnh là do Thiên Chúa chọn cho ḿnh, ḿnh chỉ là người chấp nhận nhau từ Ngài, như Adong đă chấp nhận Evà từ tay Thiên Chúa trong vườn địa đàng như “người nữ Chúa cho ở với tôi”, hôn nhân của con người mới thực sự có ư nghĩa, bền bỉ và hạnh phúc.

 

Tôi hoàn toàn đồng ư với tác giả Cao Tấn Tĩnh, và tôi nghĩ qúi vị chắc cũng không phủ nhận thực tế phũ phàng này. Không biết qúi vị có nghĩ như tôi thế này hay không, đó là nếu con người nam nữ sống đời vợ chồng với nhau, đặc biệt trong thời khoa học kỹ thuật tối tân tiến ngày nay, nếu không ư thức hôn nhân là một ơn gọi, th́ như thực tế cho thấy, không sớm th́ muộn, hôn nhân của họ cũng sẽ trở thành một thứ tṛ chơi, mà hậu quả là con cái vô tội của họ sẽ trở thành một món đồ chơi.

 

Tầm quan trọng của việc ư thức ơn gọi hôn nhân liên hệ đến “vấn đề sinh sản” đă được Đức Phaolô VI nhấn mạnh trong Thông Điệp Sự Sống Con Người ở đoạn 7 như sau:

 

Vấn đề sinh sản, giống như mọi vấn đề khác liên quan đến sự sống con người, phải được cứu xét vượt ra ngoài cả những quan điểm riêng rẽ - dù là trật tự sinh lư hay tâm lư, dân số hay xă hội - tức phải được cứu xét theo ư nghĩa của một cái nh́n toàn diện về con người và về ơn gọi của họ, chẳng những ơn gọi tự nhiên và trần thế, mà c̣n cả ơn gọi siêu nhiên và vĩnh cửu của họ nữa”.

 

Thế nhưng, ư thức ơn gọi hôn nhân là ǵ, thưa qúi vị, nếu không phải là nhận biết nguồn gốc thần linh của t́nh yêu hôn nhân để sống đúng bản chất và sứ mệnh đích thức của t́nh yêu này. Chính v́ thế, ngay sau khi đề cập đến vấn đề hôn nhân là một ơn gọi, Đức Phaolô VI đă nhắc lại giá trị của “t́nh yêu hôn nhân” như sau:

 

T́nh yêu hôn nhân biểu tỏ bản chất và cao qúi chân thực của ḿnh khi nó được coi như phát xuất từ nguồn gốc tối cao là Thiên Chúa, Đấng là t́nh yêu (x.1Jn.4:8), là “Cha mà mọi gia đ́nh trên trời dưới đất mang tên gọi” (x.Eph.3:15). Thế nên, hôn nhân không phải là kết quả của ngẫu nhiên hay sản vật của một cuộc tiến hóa bởi những năng lực vô thức tự nhiên; nó là một cơ cấu khôn ngoan của Đấng Hóa Công để thể hiện nơi con người dự án yêu thương của Ngài. Nhờ việc hỗ tương trao tặng bản thân ḿnh cho nhau, xứng hợp và toàn thể, vợ chồng hướng đến một cuộc hiệp thông hữu thể của ḿnh liên hệ đến tầm vóc toàn hảo chung, để hợp tác với Thiên Chúa trong việc sản sinh và giáo huấn các cuộc sống mới (đoạn 8)... Hôn nhân và t́nh yêu phối ngẫu, tự bản chất của ḿnh, là để sinh sản và giáo dục con cái. Con cái thật sự là qùa tặng cao cả của hôn nhân và đóng góp rất trọng yếu cho việc an toàn của cha mẹ ḿnh (đoạn 9).

 

Với ư thức ơn gọi hôn nhân như thế, trong thực hành, vợ chồng c̣n cần phải tỏ ra bằng việc làm, nhất là ở việc sinh sản con cái là mục đích chính yếu của hôn nhân và là căn nguyên sâu xa làm nên hôn nhân. Thế nên, theo gịng tư tưởng được bố cục thứ tự hết sức mạch lạc của ḿnh, Thông Điệp Sự Sống Con Người tiếp tục diễn đạt ở đoạn 10 về “việc truyền sinh” chân chính thế này:

 

Thế nên, trong việc truyền sinh, cha mẹ không được tự do tiến hành hoàn toàn theo ư ḿnh, như thể họ có thể định đoạt một cách hoàn toàn tự động đường lối xứng hợp phải theo; song họ phải tác động hợp với ư định sáng tạo của Thiên Chúa, được thể hiện ngay nơi bản chất của hôn nhân cũng như của việc làm hôn nhân, và được biểu lộ bằng giáo huấn liên tục của Giáo Hội.

 

Tuy nhiên, để áp dụng trọn vẹn và xác đáng ư thức ơn gọi hôn nhân trong việc truyền sinh vào thời điểm hiện nay không phải là một chuyện dễ, như những người làm cha làm mẹ chúng ta hầu như ai cũng cảm thấy. Để giải đáp vấn đề ngừa thai xứng hợp với ơn gọi hôn nhân cao cả, Thông Điệp Sự Sống Con Người, sau khi tỏ ra thông cảm với các cặp vợ chồng gặp những khó khăn trong việc sinh dưỡng con cái, đă dứt khoát chủ trương của ḿnh ở đoạn 16 như sau:

 

Nếu vậy, một số người có thể đặt vấn đề: vào hoàn cảnh hiện nay, không hợp lư hay sao, trong nhiều trường hợp cần phải sử dụng đến phương pháp ngừa thai nhân tạo, nếu nhờ đó chúng tôi bảo toàn được sự ḥa thuận và b́nh an trong gia đ́nh, cũng như tạo điều kiện tốt hơn cho việc giáo dục những đứa con đă được sinh ra? Về vấn đề này, cần phải trả lời một cách rơ ràng minh bạch như sau: Giáo Hội là người đầu tiên ca ngợi và khuyến khích việc can thiệp sáng suốt vào phận sự được gắn sát với tạo vật có lư trí trước Đấng Tạo Hóa; thế nhưng, Giáo Hội xác nhận rằng, việc này phải được thực hiện theo sự tôn trọng trật tự được Thiên Chúa thiết lậïp. Bởi thế, nếu có lư do quan trọng trong việc co giăn sinh nở, gây ra do t́nh trạng thể lư hay tâm thần của vợ chồng, hay những hoàn cảnh ngoại tại, Giáo Hội dạy rằng, bấy giờ cần phải căn cứ vào chu kỳ tự nhiên trong phần hành truyền sinh, để làm việc vợ chồng trong thời kỳ không đậu thai mà thôi, và nhờ cách này mà điều hành việc sinh sản mới không vi phạm đến những nguyên tắc luân lư...”.

 

Nếu không theo nguyên tắc và đường lối chính đáng hợp với “trật tự được Thiên Chúa thiết lập” để “không vi phạm đến những nguyên tắc luân lư” này, con người sẽ đưa cuộc sống hôn nhân của ḿnh nói riêng, và gia đ́nh của ḿnh nói chung, thậm chí cả xă hội loài người của ḿnh nữa, đến một t́nh trạng được Thông Điệp Sự Sống Con Người tiên báo rất chính xác, như thực tế hiện nay cho thấy, qua đoạn 17 như sau:

 

Có lư để sợ rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử dụng những đường lối ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi ḷng trọng kính nữ giới, và v́ không c̣n để ư tới t́nh trạng quân b́nh về thể lư cũng như tâm lư của họ, có thể tiến đến chỗ coi họ thuần túy như một dụng cụ hưởng thụ ích kỷ của ḿnh, họ không c̣n là người đồng bạn đáng kính và yêu dấu của ḿnh nữa. Cũng cần xét đến việc trao khí giới nguy hiểm vào tay một thứ chính quyền không c̣n nghe theo những đ̣i hỏi luân lư. Ai có thể đổ lỗi cho chính quyền về việc giải quyết những rắc rối của cộng đồng bằng cách dùng những phương tiện được công nhận là hợp pháp cho các cặp vợ chồng để giải quyết những vấn đề gia đ́nh? Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm quyền khỏi chấp nhận phương pháp ngừa thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay cả khỏi việc họ áp đặt lên dân chúng của ḿnh phương pháp này, một khi họ cho là cần thiết? Như thế, con người, trong khi muốn tránh những khó khăn về cá nhân, gia đ́nh hoặc xă hội ngược lại với việc giữ lề luật thần linh, sẽ tiến đến chỗ đặt lănh vực cá nhân nhất và riêng tư nhất của t́nh tự hôn nhân vào sự can thiệp thương hại của chính quyền. Kết quả là, nếu không muốn sứ mệnh truyền sinh bị lạm dụng bởi ư muốn buông thả của con người, họ cần phải nhận biết những giới hạn không thể vượt qua đối với khả năng nơi quyền thống trị của con người trên thân xác ḿnh cũng như trên các phần hành của nó; những giới hạn mà không một ai, dù là cá nhân riêng tư hay một người có thẩm quyền, cho rằng ḿnh có quyền qua mặt.

 

Kính thưa qúi thính giả, qua lời cảnh báo này, qúi vị không thấy rằng Thông Điệp Sự Sống Con Người của Đức Phaolô VI quả thực là một sứ điệp tiên tri của thời hiện đại chúng ta đang sống hay sao?! Nếu qúi vị để ư trong các đoạn Thông Điệp được trích dẫn vừa rồi, qúi vị sẽ thấy có 2 điều Đức Phaolô lo ngại chính, liên quan đến việc sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo không đúng với “trật tự được Thiên Chúa thiết lập” và đă “vi phạm đến những nguyên tắc luân lư”.

 

Điều lo ngại thứ nhất là: “Có lư để sợ rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử dụng những đường lối ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi ḷng trọng kính nữ giới, và v́ không c̣n để ư tới t́nh trạng quân b́nh về thể lư cũng như tâm lư của họ, có thể tiến đến chỗ coi họ thuần túy như một dụng cụ hưởng thụ ích kỷ của ḿnh, họ không c̣n là người đồng bạn đáng kính và yêu dấu của ḿnh nữa”. Điều này cho thấy, kính thưa qúi vị, một cách trực tiếp nơi thị trường buôn dâm, vẫn biết loại thị trường này đă có từ trước, song đến nay, thị trương măi dâm này lại càng ngày càng đầy giẫy và tinh vi khêu gợi hơn nơi những phim ảnh, h́nh ảnh, hộp đêm phơi bầy phụ nữ khỏa thân để mua vui cho nam giới, nhất là nơi một số nước bên Á Châu và Uùc Châu đang làm ngơ trước dịch vụ du lịch mua dâm. Sự kiện khinh thường xác thể phụ nữ này c̣n phơi bầy cách gián tiếp qua sự kiện ly dị mỗi ngày một tăng, nhất là ở các nước tân tiến Aâu Mỹ, ở một môi trường con người chỉ chạy theo tiện nghi vật chất hơn là trọng t́nh trọng nghĩa, một môi trường hưởng thụ theo cá nhân chủ nghĩa hơn là phục vụ cho tha nhân cộng đồng, một môi trường cạnh tranh kinh tế lợi lộc và chính trị chủ quyền hơn là tinh thần hy sinh bỏ ḿnh v.v.

 

Điều lo ngại thứ hai là: “Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm quyền khỏi chấp nhận phương pháp ngừa thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay cả khỏi việc họ áp đặt lên dân chúng của ḿnh phương pháp này, một khi họ cho là cần thiết?” Đă không xẩy ra đúng như thế hay sao, riêng luật pháp ở Hoa Kỳ đă cho phép phá thai vào năm 1973, tức sau bức Thông Điệp này 5 năm. Điển h́nh nhất là Hội Nghị về Dân Số ở Cairô nước Ai Cập năm 1994 bốn năm trước đây, Năm Quốc Tế Gia Đ́nh do Liên Hiệp Quốc tổ chức, một hội nghị muốn triệt để phát động phương pháp ngừa thai nhân tạo để kiểm soát dân số thế giới, đến nỗi, nếu không bị hai khối Công Giáo và Hồi Giáo cực lực phản chống một cách hết sức nghiêm chỉnh và kịch liệt, th́ phụ nữ trên thế giới nói chung, và ở các nước chậm tiến hay đang tiến nói riêng, v́ ngay lành hay dù không muốn, cũng đă phải tuân theo một thể chế quốc tế hóa trong việc hạn chế sinh sản hoàn toàn vô nhân đạo và phản luân lư mất rồi.  

 

Kính thưa qúi vị, “ở xă hội người mẹ có thể sát hại con ḿnh th́ c̣n ǵ mà người ta lại không dám hủy hoại. Một đất nước giết hại những trẻ em c̣n trong bụng mẹ - những con người được tạo tác để sống và để được yêu thương, những tạo vật được dựng nên giống h́nh ảnh Thiên Chúa - th́ đất nước đó là một đất nước bần cùng nhất”. Mẹ Têrêsa Calcutta đă suy luận và tuyên bố như thế.

 

Thật vậy, qúi vị ạ, cứ đà này, thế giới chúng ta hiện sống đang ở trên đà lao ḿnh xuống hố diệt vong, với nhân số càng ngày càng suy giảm tới mức không thể nào lấy lại được nữa. Như các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy, hầu hết dân số trên cả thế giới được phát triển là do người ta sống lâu hơn là sinh nhiều hơn. Số sinh đă giảm sút hẳn tại Bắc Mỹ, Mỹ Châu La Tinh, Aâu Châu và Đông Á. Theo chiều hướng này th́ Aâu Châu sẽ hụt dân số vào năm 2005; mức độ thụ thai của các nước tân tiến sẽ rơi xuống dưới mức độ  bù trừ vào năm 2015, và cả thế giới sẽ hụt dân số vào năm 2045. Phần trăm của dân số thế giới tăng hiện nay ở mức thấp nhất trong lịch sử và tiếp tục giảm sút mỗi năm...

 

Ngoài ra, c̣n một dấu chứng nữa báo hiệu t́nh trạng con người đang trên đà diệt vong là việc tràn lan các chứng bệnh bị nhiễm lây theo đường sinh dục, theo tiếng Mỹ là sexually transmitted diseases. Thật vậy, không kể hội chứng liệt kháng, hay Aids bên tiếng Mỹ và Siđa như người Việt chúng ta vẫn quen gọi, một hội chứng đă lan tràn khắp thế giới mà khoa học tân tiến ngày nay vẫn không thể đối phó nổi, th́ riêng tại Mỹ quốc này, theo các tài liệu của Đại Học Chuyên Viên Sản Khoa Hoa Kỳ, của bác sĩ Joe Mclllhaney Jr. trong cuốn Safe Sex do Baker Book House xuất bản năm 1991, và của Các Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật ở Atlanta, tiểu bang Georgia, cho biết:     Các bệnh truyền nhiễm theo đường sinh lư là những chứng bệnh thịnh hành nhất hiện nay, chỉ thua có cảm cúm thông thường mà thôi; 1 trong 5 người Mỹ hiện nay đang mắc phải chứng bệnh này; 12 triệu trường hợp bắt đầu bị bệnh này được tường tŕnh hằng năm, tức 33 ngàn vụ mỗi ngày; 45 triệu người Hoa Kỳ bị nhiễm chứng bệnh này không thể chữa trị

           

Vậy, để cứu văn t́nh trạng băng hoại gia đ́nh gây ra bởi cuộc khủng hoảng t́nh yêu hôn nhân mà hậu quả, ngoài các chứng bệnh truyền nhiễm theo đường sinh lư nguy tử, là chính những thai nhi vô tội bị chết oan uổng, hội ḍng Thừa Sai Bác Aùi của Mẹ Têrêsa Calcutta đă thực hiện “chương tŕnh kế hoạch hóa theo phương cách tự nhiên” cho các cặp vợ chồng, và chương tŕnh “đừng phá thai” qua việc nhận nuôi trẻ em bị bỏ rơi sau khi sinh ra.

 

Về “chương tŕnh kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên”, Mẹ Têrêsa cho biết thành quả về sinh lư, về cả sinh lư lẫn tâm lư, và cho chung xă hội, như sau. Thành qủa về sinh lư: “Có ba ngàn gia đ́nh tham dự chương tŕnh kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên th́ có khoảng 95% đă thành công. Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta có thể mang phương pháp tự nhiên này truyền dạy cho tất cả mọi quốc gia, và nếu tất cả mọi người nghèo có thể học biết phương pháp này, th́ chắc sẽ ḥa b́nh hơn, yêu thương nhau hơn trong các gia đ́nh”. Thành quả về cả sinh lư lẫn tâm lư: “Nhiều người đă nói với tôi rằng: ‘Nhờ việc học hỏi để kế hoạch hóa gia đ́nh theo đường lối tự nhiên mà t́nh yêu của chúng tôi và sự kính trọng nhau nơi chúng tôi khá hơn trước’. Các Nữ Tử Bác Aùi của hội ḍng chúng tôi đă hướng dẫn các gia đ́nh, cho cả vợ lẫn chồng, việc kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên, và họ đă cho chúng tôi biết họ cảm thấy khỏe mạnh hơn trước. Họ bày tỏ rằng ‘chúng tôi hiện nay khỏe lắm. Thêm vào đó, chúng tôi lại c̣n biết tùy nghi có con theo ư ḿnh nữa’”. Thành quả cho chung xă hội: “Nơi nào chính quyền cũng lo ngại về vấn đề khủng hoảng nhân số... Chúng tôi đă giúp cho chính phủ Aán Độ, đặc biệt ở nguyên tại Calcutta, trong 10 năm qua giảm tỉ lệ dân số hơn cả triệu người. Đó là lư do tại sao chính quyền Aán Độ đă hoàn toàn công nhận giá trị của việc kế hoạch hóa gia đ́nh theo phương pháp tự nhiên”.

 

C̣n về chương tŕnh “đừng phá thai” qua việc nhận nuôi trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi sau khi sinh ra, Mẹ Terêsa cũng lên tiếng kêu gọi như sau: “Hôm ấy, có một phụ nữ người Aán đến chia sẻ với tôi về nỗi khổ tâm dằn vặt mà bà đang trải qua. Người đàn bà này rất giầu, có đủ mọi thứ, song lại hết sức buồn đau. Bà tức tưởi nói: ‘Mẹ ơi, tôi vừa trông thấy một em bé độ 8 tuổi chơi ở ngoài sân. Khi thấy đứa bé kia tự nhiên tim tôi nhức buốt, lương tâm cứ dày ṿ cắn rứt trong tôi, v́ trước đây tám năm tôi đă phá thai. Thưa Mẹ, nếu không phá thai th́ giờ đây tôi đă có một đứa con cũng lên 8 tuổi rồi’. Qúi vị thân mến, nếu qúi vị không muốn nuôi trẻ em th́ hăy đem chúng đến cho chúng tôi. Tôi muốn nhận chúng. Tôi sẽ t́m cho chúng một mái ấm để yêu thương và dưỡng nuôi chúng. Tôi chỉ xin qúi vị một điều là đừng giết người. Đừng hủy hoại. Đừng sát hại...”

 

Thưa qúi vị thính giả, không phải một ḿnh Mẹ Têrêsa cho chúng ta biết thành quả tốt đẹp và hầu như mỹ măn của phương pháp ngừa thai nhân tạo, mà c̣n cả các bậc thức giả đương thời nữa. Chẳng hạn, theo tác giả Mercedes A. Wilson, trong cuốn “Love and Family” do Ignatius Press ở San Francisco xuất bản năm 1996, qua bản phân tích mức độ hiệu nghiệm của các phương pháp ngừa thai nhân tạo với Ovulation Method là phương pháp tự nhiên căn cứ theo chu kỳ trứng rụng, th́ kế hoạch hóa gia đ́nh theo đường lối tự nhiên, Natural Family Planning, như phương pháp trứng rụng, đă được thử nghiệm gắt gao trong hai thập niên qua, cho thấy mức công hiệu tối đa, lên đến 98-99%. Mức độ thành qủa này qua mặt cả mức độ hiệu nghiệm của tất cả mọi y dụng được phát minh ra để phá thai hay ngừa thai nhân tạo.

 

Như thế, kính thưa qúi vị, với “Chân Lư Rạng Ngời” của Thông Điệp Sự Sống Con Người do Đức Phaolô VI ban hành cách đây 30 năm, và với kinh nghiệm sống động hết sức thực tế của Mẹ Têrêsa Cacultta trong việc hướng dẫn để áp dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên từ đó tới nay, th́ chỉ có những ai không chịu thử hay ngại áp dụng, hoặc không thể làm chủ được ḿnh, phương pháp hiệu nghiệm này mới không có kết quả mà thôi. Trái lại, nếu đă có tinh thần sống ơn gọi hôn nhân, th́ dù việc sử dụng phương pháp này chẳng may có không thành công, nơi 1 hay 2 hoặc 5 phần trăm trong họ đi nữa, họ cũng vẫn vui ḷng chấp nhận sự sống mới do Thiên Chúa ban cho họ.

 

Tóm lại, thưa qúi vị, theo tôi, nếu các cặp vợ chồng biết sống đạo trong đời sống hôn nhân, tức thực sự và hết sức sống ơn gọi hôn nhân  của ḿnh, chắc chắn họ sẽ không bị cuốn hút đến bật gốc nhân phẩm của ḿnh trong cơn lốc “văn hóa tử vong”. Nhận thức như một niềm xác tín này của tôi có thể được chứng thực qua cuộc nghiên cứu được bà Mercedes Arzú Wilson là chủ tịch kiêm sáng lập Hội Gia Đ́nh của Người Mỹ và Hội Thế Giới cho Gia Đ́nh, thống kê cho thấy như sau: Các cặp lấy nhau trước ṭa đời th́ một nửa bỏ nhau; các cặp lấy nhau theo Giáo Hội th́ 1 phần 3 bỏ nhau; các cặp lấy nhau theo Giáo Hội và cùng nhau tham gia sinh hoạt nhà thờ th́ 1 phần 50 bỏ nhau; và các cặp lấy nhau theo Giáo Hội rồi cùng nhau tham dự Thánh Lễ và cầu nguyện chung th́ 1 phần 1429 bỏ nhau.

 

Thưa qúi thính giả, trước khi chấm dứt bài chia sẻ của tôi cho buổi tối đặc biệt hôm nay về đề tài “Ơn Gọi của Evà là Làm Mẹ Sinh Linh”, tôi xin trân trọng gửi đến các qúi vị chuyên viên sản phụ những lời của Mẹ Têrêsa Calcutta ngỏ cùng các bác sĩ và y tá cũng như nhiều bậc vị vọng trong xă hội Nhật Bản, khi Mẹ được mời đến đại học đường y khoa ở Nagazaki năm 1982, sau đây:

 

“Thưa qúi vị, tôi rất sung sướng được đến cùng qúi vị là những người đang có một nghề nghiệp tuyệt vời. Nhưng xin hăy nhớ rằng, nó không phải là một nghề thuần túy, mà c̣n là một công việc yêu thương, một t́nh yêu thương đă được thánh hóa; bởi những ǵ qúi vị đang tiếp chạm chính là sự sống, song lại là một sự sống đă được tác tạo giống h́nh ảnh Thiên Chúa. Cho nên, khi tiếp chạm sự sống, đôi tay của qúi vị phải thật sạch, mắt của qúi vị phải thật sáng, và nhất là con tim của qúi vị phải tinh nguyên để qúi vị có thể thấy được Thiên Chúa, thấy được con người Đức Giêsu ở trong sự sống ấy. Điều này không có ǵ là khó hiểu, bởi v́, chính Đức Giêsu đă tuyên bố: ‘Bất cứ điều ǵ anh em làm cho một trong những kẻ bé mọn này - như cho những thai nhi, những đứa bé tàn tật, những trẻ em khờ khạo hoặc bị ung thư - tức là anh em đă làm cho chính Ta’... Đừng để Ngài phải nói với qúi vị: ‘Các người đă đối xử với Ta ở chỗ: khi Ta khôû sở, đói khát, trần truồng, ốm đau, Ta đă đến với các người nhưng các người không chăm sóc, không lưu tâm, không xoa dịu nỗi đớn đau của Ta. Hăy cút đi, Ta không hề biết đến các người’. Thưa qúi vị, điều này có thể sẽ xẩy ra cho chúng ta, và đặc biệt là cho qúi vị, những con người mang danh ‘lương y’. Qúi vị hăy mở mắt ra để nh́n cho thấu những hiểm họa, những khốn khổ khủng khiếp, cả về thể lư lẫn tâm lư mà qúi vị đă gây ra cho người ta, qua hành động phá thai kinh tởm của qúi vị... Tôi xin lập lại rằng, qúi vị có thể thực hiện việc kế hoạch hóa cho các gia đ́nh mà không cần phải hủy hoại đi một điều ǵ cả, và cũng chẳng vấp  phạm lỗi lầm. Điều này đâu có ǵ là khó. Nếu những hạng người nghèo, những loại người khất thực của chúng tôi c̣n học được bài học đó, th́ qúi vị là những nhà học thức, là thành phần phú qúi chẳng lẽ lại không thể hay sao. Tôi xin nói thêm với qúi vị một điều này nữa là phá thai sẽ hủy hoại lương tâm của con người...”

 

Đến đây, chương tŕnh truyền thanh “Rạng Ngời Chân Lư” Việt ngữ đột nhiên bị trục trặc, không c̣n tiếp tục được nữa, nên mục “Phúc Aâm Sự Sống” của Tâm đành phải chấm dứt ngang xương, đúng 7 phút trước giờ ấn định thường lệ là 9 giờ đêm.

1 2 3 4 5 6 7